Jennifer Humby luôn cảm thấy bản thân mình chưa phát huy hết tiềm năng, nhưng cô “không bao giờ có thể làm được nhiều hơn”.
Khi còn nhỏ, các thầy cô ở trường mô tả cô là người “nói nhiều”, “bừa bãi”, và “luôn nộp bài trễ”, và nhận xét rằng cô “có thể làm tốt hơn rất nhiều nếu làm việc chăm chỉ”.
Tình trạng không hoàn toàn phát huy được tiềm năng của mình, cùng với các vấn đề về trí nhớ, không thể ngồi yên, và gặp khó khăn trong việc điều chỉnh cảm xúc, đã theo cô đến những năm thiếu niên và trưởng thành, khi cô tham gia vào các hành vi nguy hiểm liên quan đến ma túy và tình dục, thường xuyên thay đổi việc làm, đưa ra những quyết định bốc đồng về tiền bạc, hôn nhân và con cái, thường xuyên bị kiệt sức, và thậm chí trở thành hội viên của một “tà giáo”.
“Mỗi khi tôi đến gặp bác sĩ và nói rằng cảm thấy không ổn, họ luôn cho rằng đó là do lo lắng và trầm cảm,” người phụ nữ 43 tuổi sống tại Mount Gambier, Nam Úc nói với SBS News.

Jennifer's school reports said she "could do so much better if she applied herself". Source: Supplied
“Tôi đã nghĩ, ‘Ôi Chúa ơi, sao mà giống mình quá’,” cô nói.
Sau đó, cô dành sáu tháng tiếp theo để tìm hiểu về ADHD, trước khi nhờ bác sĩ viết giấy giới thiệu đến bác sĩ tâm thần để được chẩn đoán.
Tuy nhiên, bác sĩ gia đình của Jennifer đã từ chối yêu cầu này, và một lần nữa khẳng định rằng cô chỉ bị lo lắng và trầm cảm.
“Bác sĩ nhất quyết yêu cầu tôi phải lên kế hoạch chăm sóc sức khỏe tâm thần và đến gặp một nhà tâm lý học,” cô nói.
Sau nhiều tháng chờ đợi, nhà tâm lý học đã xác nhận điều mà Jennifer nghi ngờ, nhưng nói rằng việc chẩn đoán chính thức rằng cô mắc chứng ADHD sẽ là “phi đạo đức” vì ông ấy không thể kê đơn thuốc cho cô.
Thay vào đó, ông viết cho cô một lá thư để đưa cho bác sĩ gia đình, và cuối cùng Jennifer đã nhận được giấy giới thiệu bác sĩ tâm thần mà cô ấy yêu cầu.
Sau đó là sáu đến bảy tháng chờ đợi để gặp bác sĩ tâm thần ở Adelaide – cách nhà cô gần năm tiếng lái xe.
“Nó khiến tôi rất lo lắng vì tôi nghĩ, ‘Nếu tôi không bị ADHD thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi cho rằng đây là giải pháp nhưng thực sự không phải vậy?’ nên điều đó lại tạo thêm áp lực cho tôi trong giai đoạn đó.”
Sau vài tuần và hàng ngàn đô la chi phí đi lại và thăm khám bác sĩ, Jennifer đã nhận được chẩn đoán ADHD loại kết hợp, nghĩa là cô ấy có cả triệu chứng thiếu chú ý và hiếu động thái quá/bốc đồng.

It took stumbling upon TikTok videos about ADHD for Jennifer (pictured with her husband) to realise she might have it. Source: Supplied
Tại sao việc chẩn đoán ADHD ở người trưởng thành lại khó đến vậy?
Ước tính cứ 20 người Úc thì có một người mắc chứng ADHD – với sự gia tăng đáng kể số người muốn được chẩn đoán trong vài năm qua, đặc biệt là người trưởng thành.
“Một phần lý do khiến chúng ta chứng kiến ‘sự tăng vọt các chẩn đoán’ vào thời điểm hiện tại là vì rất nhiều người đã phải vật lộn với các vấn đề sức khỏe tâm thần trong suốt cuộc đời của họ và đã đi khám nhiều nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần và được chẩn đoán mắc những bệnh khác – nhưng ADHD đã bị bỏ sót,” bà Luisa Livingstone, nhà tâm lý học lâm sàng tại Melbourne, nói với SBS News.
Bà Livingstone cũng mắc chứng ADHD và cho biết tình huống này đặc biệt xảy ra với phụ nữ.
“Khi chúng ta còn nhỏ, ADHD thường được xem là bệnh của các bé trai… rất hiếm khi các bé gái được chẩn đoán mắc bệnh này,” bà nói.
Nhiều người đã bị bỏ sót không được chẩn đoán ADHD khi còn nhỏ, điều đó khiến cho bệnh nhân ở nhiều nơi trên khắp cả nước phải đợi một thời gian dài mới được gặp bác sĩ.
“Thời gian chờ đợi trung bình để gặp bác sĩ tâm thần có thể lên tới tám tháng. Tôi cũng đã từng phải chờ một năm hoặc 18 tháng,” bà nói.
“Có một số nơi mà thời gian chờ đợi ngắn hơn, nhưng việc phải chờ đợi hàng tháng trời là chuyện khá bình thường.”
Bà Livingstone cho biết chi phí chẩn đoán cũng đã “tăng vọt” trong vài năm qua.
Trước đây, chi phí cho buổi tư vấn ban đầu là $450, nhưng một số bác sĩ tâm thần – đặc biệt là những người làm việc tại các phòng khám chuyên khoa ADHD phần lớn chỉ khám bệnh từ xa (telehealth) – đang tính phí hàng ngàn đô la.
“Thường thì đó là một cuộc tư vấn kéo dài một giờ với bác sĩ tâm thần và một số thủ tục hành chính liên quan đến các mẫu đơn và những thứ tương tự,” bà nói.
“Tôi tự hỏi liệu một số mức giá hiện nay có thực sự phù hợp với khối lượng công việc được thực hiện hay không?”
Theo tiến sĩ Alison Poulton, một bác sĩ nhi khoa chuyên về ADHD ở Sydney, một điều đáng lo ngại khác là ADHD không được đưa vào chương trình đào tạo cho nhiều người chịu trách nhiệm chẩn đoán và điều trị căn bệnh này.
“Một số bác sĩ tâm thần đã học hỏi và phát triển kỹ năng và làm rất tốt công việc của họ, nhưng những bác sĩ tâm thần khác vẫn không cảm thấy rằng đây là một phần của tâm thần học, hoặc họ đang cố gắng hết sức và vật lộn mà không thực sự biết nhiều về cách chẩn đoán và điều trị,” bà nói với SBS News.
“Có những bác sĩ tâm thần nghĩ rằng hầu hết [các triệu chứng của bệnh nhân] là do tổn thương tâm lý, hoặc ADHD là một chẩn đoán loại trừ và bạn không thể chẩn đoán ai đó mắc ADHD trừ khi bạn loại trừ rất nhiều thứ khác – trong khi trên thực tế, ADHD thường liên quan đến các bệnh đi kèm khác.”
Sự thiếu hiểu biết về ADHD có thể góp phần khiến những bệnh nhân nghi ngờ họ mắc bệnh này bị các chuyên gia y tế bác bỏ.
Một số người có thể cho rằng vì bệnh nhân của họ là người thành công trong sự nghiệp nên “không thể mắc ADHD”, hoặc bệnh nhân chỉ đang “chạy theo trào lưu” sau khi biết về các triệu chứng của ADHD qua mạng xã hội.
“Tôi chắc chắn rằng bạn hoàn toàn bị kỳ thị khi họ không biết mức độ căng thẳng mà bạn phải trải qua hàng ngày chỉ để hoàn thành những việc mà hầu hết mọi người dường như không gặp khó khăn gì,” bà nói.
Tiến sĩ Poulton cho biết thêm, một thách thức nữa là các tiêu chuẩn chẩn đoán ADHD hiện tại “không phù hợp” để đánh giá người trưởng thành.
“ADHD ban đầu được xem là một căn bệnh của trẻ em, và do đó các tiêu chí được đưa ra dựa trên sự quan sát của người lớn về hành vi của trẻ em,” bà nói.
“Tất nhiên, theo thời gian, ngày càng rõ ràng là tình trạng ADHD vẫn có thể tiếp diễn cho đến tuổi trưởng thành … nhưng các tiêu chí vẫn chưa thực sự được phát triển nhiều ngoài những quan sát ban đầu về hành vi của trẻ em.”
Bà Livingstone cho biết, những người trưởng thành muốn được chẩn đoán ADHD thường được yêu cầu cung cấp “thông tin bổ sung” để chứng minh rằng các triệu chứng đã xuất hiện từ khi họ còn nhỏ.
“Đó có thể là tờ khai của một người nào đó quen biết bạn, bày tỏ suy nghĩ về các triệu chứng ADHD của bạn và nó ảnh hưởng như thế nào đến các mối quan hệ cũng như những thứ tương tự,” bà nói.
“Đối với nhiều người, điều này có thể thực hiện được – nhưng thông thường, [các chuyên gia y tế] cũng có thể muốn nói chuyện với cha mẹ bạn và nghe về mọi thứ khi bạn còn nhỏ và/hoặc họ có thể yêu cầu bạn cung cấp hồ sơ từ trường.
“Cả hai điều đó đều có thể gây khó khăn vì đôi khi mọi người không còn giữ hồ sơ từ trường, đặc biệt nếu đó là 40 năm về trước, và đôi khi các bậc cha mẹ không nhớ mọi thứ diễn ra như thế nào hoặc họ có thể không thực sự cho rằng đứa trẻ có vấn đề.”
Tiến sĩ Poulton cho biết nếu không thể cung cấp những thông tin trên, bạn vẫn nên đi khám ADHD nếu cảm thấy cần thiết.
“Chúng ta có thể chẩn đoán người trưởng thành tốt hơn nhiều bằng cách hỏi họ về cách thức hoạt động của tâm trí họ, điều gì thực sự xảy ra, họ gặp khó khăn nhất với điều gì, tại sao họ lại gặp khó khăn, điều gì xảy ra với sự chú ý của họ … đại loại như vậy – nhưng điều đó vẫn chưa thực sự được phát triển, nên chúng ta vẫn bị mắc kẹt với khái niệm khá lỗi thời và không phù hợp với người trưởng thành về ADHD,” bà nói.
Những rào cản mà bệnh nhân phải đối mặt khi yêu cầu chẩn đoán và điều trị ADHD kịp thời và hợp lý đã là chủ đề của một cuộc điều tra tại Thượng viện trong năm nay.
“Chúng tôi hy vọng rằng báo cáo sẽ đưa ra một số khuyến nghị cụ thể thực sự tốt nhằm giải quyết một số vấn đề này,” bà Poulton nói, đồng thời cho biết thêm rằng ADHD đã trở thành một “cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng” ở Úc.
Jennifer muốn thấy sự thay đổi được thực hiện để bảo đảm nhiều người mắc chứng ADHD có thể được chẩn đoán “mà không cần phải đấu tranh” như cô.
“Càng có nhiều nhận thức, càng có nhiều phương pháp điều trị, càng cởi mở hơn để xem nó như một khả năng, điều này sẽ thực sự thay đổi cuộc sống của mọi người,” cô nói.